Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Lương tối thiểu vùng 2015: Chốt đề xuất tăng 3,1 triệu đồng



Đây là phương án được Hội đồng tiền lương nhà nước chốt sau buổi làm việc sáng 6/8, đã nhận được 63% so phiếu đồng thuận trở thành phương án tăng lương tối thiểu năm 2015 và sẽ được trình lên Thủ tướng cân nhắc, quyết định vận dụng từ năm sau.

Cụ thể, yêu cầu lương tối thiểu vùng 1 năm 2015 là 3.100.000 đồng/người/tháng (tăng 400.000 đồng so với lương tối thiếu năm 2014), vùng 2 là 2.700.000 đồng (tăng 350.000 đồng), vùng 3 là 2.400.000 đồng (tăng 320.000 đồng), vùng 4 là 2.200.000 đồng (tăng 300.000 đồng).

Như vậy, mức tăng lương trung bình so với năm nay là 15,1%.



Bên cạnh việc bàn tới mức lương tối thiểu vùng năm 2015, thứ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Minh Huân cho rằng, trong năm 2015, Hội đồng bạc lương nhà nước sẽ phải đi sâu vào nghiên cứu mức lương tối thiểu theo nhiều căn cứ bổ sung như: Chỉ số giá tiêu thụ, đời sống lao động, sự chênh lệch mức lương giữa khu vực phi chính thức và chính thức, lương giữa tổ chức quy mô lớn và đơn vị quy mô nhỏ.

“Hội đồng tiền lương quốc gia sẽ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Hội đồng nghiên cứu năng suất cần lao, nhằm đảm bảo đời sống lao động và yêu cầu những biện pháp cạnh tranh của cần lao Việt Nam” - ông Huân cho biết thêm.

Bên cạnh đó, ông Mai Đức Chính, Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho biết lịch trình là đến năm 2017, mức lương tối thiểu khu vực công ty sẽ đạt mức nhu cầu thấp nhất. Do đó, nếu năm nay mức lương tăng thấp hơn dự kiến thì những năm sau, cơ quan sẽ phải "nặng gánh" hơn.

Theo quy định hiện hành, các cơ quan và công ty, cơ quan thuộc khu vực ngoài ngân sách nhà nước phải trả lương cho người động không thấp hơn lương tối thiểu vùng. Đây cũng thường là căn cứ để các công ty tính toán mức đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Nửa đầu năm nay, Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng Liên đoàn cần lao đã khảo sát về vấn đề tiền lương, mức sống tối thiểu với 1.500 công nhân, lao động tại 60 cơ quan ở 12 tỉnh, thành. Kết quả cho thấy, mức lương hiện chỉ đáp ứng 69-77% mức sống tối thiểu theo vùng. Do đó, Tổng Liên đoàn từng đề ra phương án tăng lương tối thiểu vùng I lên mức 3,4 triệu đồng.

Ngoài ra cộng đồng tổ chức cho rằng mức tăng 23% ngay trong năm 2015 là quá cao khi tình hình sinh sản, kinh doanh chưa hết khó khăn. Chủ toạ Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho rằng chỉ nên tăng khoảng 14% để đảm bảo đời sống người cần lao song song hỗ trợ tổ chức.

L-a.Com.Vn
Mối nguy duy trì và cải tiến hệ thống quản lý chất lượng sau chứng thực

(VietQ.Vn) - Qua thực tiễn triển khai tham mưu và đào tạo, các chuyên gia hàng đầu của P & Q Solutions đã tổng hợp được 10 nguy cơ đối với việc duy trì và cải tiến Hệ thống quản trị chất lượng trong thời đoạn sau chứng thực.

Với ước lượng khoảng 10.000 Hệ thống quản lý chất lượng đã được chứng thực, nhiều trường hợp trong số này đã không được duy trì tốt để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức áp dụng.

Chuyên gia Phạm Minh Thắng - Giám đốc P & Q Solutions cho biết, 10 nguy cơ có thể xảy đến với các cơ quan, đơn vị khi ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng sau chứng thực.



Cụ thể như chơi duy trì được sự cam kết và quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp. Thiếu mô hình đơn vị ăn nhập cho việc duy trì và cải tiến Hệ thống chất lượng (cần phân biệt với chức năng kiểm tra chất lượng). Thiếu nhân viên có năng lực để quản lý hệ thống chất lượng đã được xây dựng (QMR, thư ký/điều phối viên ISO). Thiếu năng lực và nhận thức chung về quản lý chất lượng với các viên chức quản lý và nhân viên ở các cấp. Thiếu năng lực đánh giá nội bộ để xác định sự ăn nhập, hiệu lực của Hệ thống chất lượng và đặc biệt là các thời cơ cải tiến. Nội dung các tài liệu của Hệ thống chất lượng bị lỗi thời hoặc không còn phù hợp với hoạt động của tổ chức hoặc không phản ánh được những trông đợi mới của lãnh đạo công ty. Khả năng triển khai chiến lược và hướng vào cải tiến hiệu quả hoạt động của Hệ thống chất lượng thấp. Thiếu sự liên kết một cách có hiệu quả giữa hoạt động quản trị chất lượng và các hoạt động quản lý khác trong đơn vị...

Trong các nguy cơ nói trên, các chuyên gia đặc biệt quan tâm tới việc trong thời đoạn xây dựng Hệ thống chất lượng, lãnh đạo doanh nghiệp coi việc đạt được chứng thực ISO 9000 là một trong những mục đích cần quan tâm của công ty, ngoại giả sau khi mục đích này đạt được thì lãnh đạo công ty không thấy được mục tiêu lớn đáng quan tâm gắn với việc duy trì HTQLCL. Hoặc thiếu viên chức có năng lực để quản trị hệ thống chất lượng đã được xây dựng (QMR, thư ký/điều phối viên ISO).

Quản lý HTQL là một công việc mới, được nảy sinh sau khi hệ thống quản trị chất lượng được xây dựng. Việc này đề nghị một tập hợp các kiến thức và kỹ năng mới mà, có thể, tổ chức chưa có được. Trong quá trình xây dựng HTCL thì các tri thức và kỹ năng này được cung cấp và bảo đảm được với hoạt động hướng dẫn và hỗ trợ của các chuyên gia sản vấn. Khi dự án ISO 9000 chấm dứt, việc rút đi của các chuyên gia tư vấn làm miêu tả sự thiếu hụt về năng lực của công ty rong lĩnh vực này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp QMR và/hoặc thư ký/điều phối viên ISO mất việc, chuyển công tác, tổ chức bổ nhiệm người thay vậy mà có thể người này chưa từng có kinh nghiệm và được tập huấn về xây dựng, thực hành và kiểm soát một Hệ thống chất lượng.

Hoặc thiếu sự liên kết một cách có hiệu quả giữa hoạt động quản lý chất lượng và các hoạt động quản trị khác trong tổ chức. Quản trị chất lượng là hoạt động “liên chức năng” và cần được triển khai nhất quán, đầy đủ tại tất cả các cấp và chức năng của đơn vị.

Một trong những thách thức cơ bản với việc triển khai dự án ISO 9000 là làm thế nào để các bộ phận quản trị khác cảm nhận được một cách đầy đủ sự tác động và giá trị của Hệ thống chất lượng với hoạt động của mình, mà không phải là sự chồng chéo, “rườm rà” về mặt thủ tục.

Kinh nghiệm tại không ít các doanh nghiệp đã ứng dụng ISO 9000 cho thấy sau một số năm thực hành Hệ thống chất lượng, cơ quan vẫn loay hoay với các câu hỏi như “Chất lượng sản phẩm hay chất lượng hoạt động?”, “Khách hàng bên ngoài hay cả khách hàng bên trong?”, “khuôn khổ của Hệ thống chất lượng đến đâu?” “Chính sách chất lượng khác gì với chiến lược công ty?”, “Có sự khác biệt nào giữa mục tiêu chất lượng và mục tiêu sản xuất kinh doanh?”.

Tiếp cận không thỏa đáng trong giải quyết mối quan hệ này thường đưa các tổ chức đến một trong hai thái cực đối chọi nhau. Trong trường hợp thứ nhất, các công ty có thể tự bằng lòng với một Hệ thống chất lượng quá bó hẹp với các hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ. Điều thường thấy trong các tổ chức sử dụng tiếp cận này là có nhiều người, bộ phận cảm thấy bàng quan với Hệ thống chất lượng theo ISO 9000 và tự coi mình là “ngoài ISO”. Trường hợp thứ hai là các tổ chức “lạnh lùng” áp đặt Hệ thống chất lượng một cách “cứng nhắc” vào toàn bộ các hoạt động mà bỏ qua các “đặc thù” của các lĩnh vực hoạt động này. Việc chọn cách tiếp cận này thường dẫn đến hiện tượng “cán bộ ISO” hướng dẫn cho các viên chức nghiệp vụ và tạo sự “ức chế” của các phòng ban vì cảm giác bị áp đặt mà không thực thụ bị thuyết phục bởi các chuẩn mực mới trong Hệ thống chất lượng.

Nguyễn Nam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét